VietTimes -- "Chúng ta đứng trước nguy cơ là không còn bất kỳ một đồng nào để đầu tư phát triển nữa. Hiện nay gần 70% NSNN dùng cho chi thường xuyên, còn lại là dịch vụ nợ chiếm hơn 30%. Như vậy là toàn bộ 100% NSNN chỉ để chi cho hai việc ấy thôi", chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong phân tích.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong
Nợ công của Việt Nam nguy hiểm hơn các nước khác
Nợ
công của Việt Nam đang tiến gần tới kịch trần 65% GDP cho phép. Tuy
nhiên điều đáng nói là trong vòng 5 năm trở lại đây nợ công đã tăng gấp
đôi. Ông bình luận gì về vấn đề này?
- Nợ công của chúng ta hiện nay có 4 đặc trưng nổi bật. Thứ nhất là,
nợ công tăng nhanh hơn mọi dự báo, kể cả những dự báo bi quan nhất,
thậm chí vượt cả dự tính của Bộ Tài chính. Đây là một trong những dấu
hiệu nguy hiểm nhất và ngày càng hiện hữu rõ hơn. Hai là, nợ
công chưa được hiểu hết, chưa được tính đúng, tính đủ mà nó đã tạo ra áp
lực như vậy rồi, nếu tính đúng, tính đủ nó còn tăng hơn nữa, thậm chí
gấp đôi mức hiện nay. Thứ ba là, cơ chế quản lý nợ, trả nợ, trách nhiệm đối với nợ chưa thật rõ ràng. Và cuối cùng nữa là,
vẫn còn các tác nhân khác gây ra khiến cho nợ công còn tiếp tục tăng
nhanh, mà tác nhân lớn nhất ở đây chính là đầu tư công, là doanh nghiệp
nhà nước (DNNN), là quản lý nhà nước.
Đây là 4 đặc trưng cơ bản của nợ công ở Việt Nam, đồng thời cũng là 4 dấu hiệu đáng báo động của nợ công việt Nam.
Nhưng trên thế giới nước nào mà chả có nợ công, thưa ông?
-
Nếu chúng ta nhìn rộng ra về nợ công, thì chúng ta thấy rằng, thực ra
con số 65%, thậm chí là 100% không quan trọng, mà quan trọng là ở khả
năng trả nợ, khả năng thu ngân sách, khả năng chi tiêu… So với các nước
khác, thì nợ công của chúng ta còn nguy hiểm gấp đôi. Vì sao? EU họ cũng
nợ công, nhưng họ có cộng đồng, có những nước mạnh như nước Đức, có
IMF, có các tổ chức tài chính khác hỗ trợ cho nên họ vẫn điều chỉnh
được. Mỹ cũng nợ công lớn nhưng họ có đồng đô la, có lượng dự trữ lớn,
có uy tín, có thể chế. Nhật Bản cũng vậy. Hầu hết các nước khác cũng đều
như vậy.
Tỉ lệ nợ công ở Việt Nam không phải là
quá nguy hiểm, thế nhưng xét về khả năng trả nợ, uy tín thì Việt Nam
thuộc diện tốp nguy hiểm. Bởi vì: Thứ nhất, dự trữ ngoại tệ của ta rất hiếm, rất mỏng. Thứ hai là,
độ ổn định bền vững của kinh tế không lớn. Nguồn thu ngày càng hẹp lại.
Tiếp nữa là sự lỏng lẻo trong cơ chế dẫn đến thất thoát quá lớn. Xử lý
trách nhiệm nợ công không thật rõ ràng... Đấy là những lý do khiến cho
nợ công của chúng ta nguy hiểm hơn nhiều nếu so với các nước khác. Ví
dụ, nợ công ở Mỹ muốn tăng được phải do Quốc hội thông qua. Ở ta có khi
tăng xong rồi thì Quốc hội mới được thông báo và buộc phải thông qua. Thứ 3 là,
sự phân công, phân cấp và hiểu về nợ nó không thật đầy đủ, không những
không đúng chuẩn thế giới mà trách nhiệm của người quản lý nợ cũng chưa
được quy định, nếu không muốn nói là không phải chịu trách nhiệm gì. Ở
các nước khác nếu ai gây ra nợ công sẽ bị chỉ đích danh và phải chịu
trách nhiệm.
Theo ông thì tác nhân chính nào khiến cho nợ công của Việt Nam tiếp tục phi mã?
- Có 2 tác nhân khiến cho nợ công của Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng nhanh trong những năm tới là DNNN và đầu tư công.
Đối
với vốn vay cho DNNN lâu nay chúng ta không tính vào nợ công, nhưng
đáng ra là phải tính. Ví dụ như Vinasin chẳng hạn, bao nhiêu NSNN, tiền
đi vay đổ vào đấy.
Đầu tư công cũng vậy. Việc
quy hoạch, hệ thống quy hoạch, trách nhiệm quản lý quy hoạch, sự phân
công, phân cấp quản lý cho các địa phương là rất yếu kém. Vì thế mới có
chuyện tranh nhau làm dự án, đua nhau làm trụ sở, đền đài, lăng tẩm… bất
chấp NSNN có còn tiền hay không. Mà những thứ này toàn là tiền đi vay.
Vì thế nợ công của các địa phương được cộng dồn lại và đẩy lên Trung
ương. Cuối cùng thì tất cả nợ đó đổ hết lên vai người dân, lên thế hệ
tương lai.
Thế nhưng, điều trớ trêu là hiện nay
lại chưa ai có đủ thẩm quyền để báo động ở mức cao nhất, xác lập lại
nhận thức về nợ công để từ đó xác lập lại hệ thống pháp lý để xử lý nợ
công một cách hữu hiệu, khoa học.
Chưa bao giờ áp lực nợ công lớn như hiện nay
Nguồn
thu ngân sách của chúng ta một thời gian dài chủ yếu dựa vào dầu thô và
thuế xuất nhập khẩu. Tuy nhiên giá dầu tiếp tục giảm, thuế xuất nhập
khẩu sắp tới, nhất là khi thực hiện hiệp định TPP, nhiều mặt hàng về gần
bằng 0%, hoặc bằng 0%. Theo ông, sự thiếu hụt này sẽ được bù bằng cách
nào?
- Khách quan mà nói thì hiện
nay dầu mỏ không phải là nguồn thu lớn nhất, đã có thời kỳ là lớn nhất:
khoảng 30%, thậm chí có lúc lên đến 60%, nhưng hiện nay, theo dự toán,
chỉ trên dưới 10%, còn thực tế chỉ khoảng 5%- 6% như năm ngoái. Còn từ
các nguồn thu khác thì đang tăng lên. Đấy là cái khách quan.
Nhưng
quả thật giới hạn của nguồn thu ngân sách hiện nay đang rất bí vì thuế
chỉ có thể giảm chứ không tăng lên được, trừ một vài loại đặc biệt. Thứ
nữa là vay nợ cũng hết, bởi vì vay nợ cũng là một nguồn thu ngân sách.
Nợ trái phiếu đã tới giới hạn. Nợ công thì bây giờ phải chuyển sang vay
thương mại, chứ không thể vay ODA được nữa.
Nếu
nhà nước tiếp tục vay nợ thương mại thì sẽ cạnh tranh với doanh nghiệp,
với các hoạt động kinh tế khác. Như vậy sẽ đẩy lãi suất đi lên. Đẩy lãi
suất lên sẽ tạo ra sự trì trệ trong nền kinh tế. Nền kinh tế không phát
triển được sẽ giảm nguồn thu. Nó thành một cái vòng luẩn quẩn.
Trong
khi đó những nguồn thu khác không có nhiều. Bởi vì nền kinh tế của
chúng ta không có yếu tố gây đột biến. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà
hàng rào thuế quan đang ngày càng trở về gần bằng 0% hoặc bằng 0%, thì
đúng là nguồn thu cho NSNN là vô cùng khó khăn.
Ông có thể nói cụ thể hơn, nợ công của chúng ta trong thời gian tới sẽ như thế nào không?
-
Theo khuyến cáo của World Bank, những nước như Việt Nam, nợ công phải ở
mức dưới 25% tổng thu ngân sách thì mới an toàn, nhưng nợ công của
chúng ta đã tới 30% rồi, nếu tính đầy đủ thì đã là 36%. Tuy nhiên đây
chưa phải là cao nhất, năm 2016- 2017, thậm chí là năm 2022 mới là cao
nhất. Thế cho nên rõ ràng trong vài năm tới nợ công vẫn tiếp tục tăng và
tăng vượt chuẩn an toàn của một nước chớm phát triển (trung bình) như
Việt Nam.
Điều cần nói làchúng ta đang phải tiến
tới giai đoạn đảo nợ, vay đảo nợ. Mặc dù trước đó chúng ta có vụ vay
một tỷ USD khá tốt. Vay lãi suất thấp, trả cho món nợ có lãi suất cao.
Nhưng trong tương lai ta lặp lại điều đó sẽ phản tác dụng, vì các chủ nợ
sẽ không cho vay như trước đây nữa. Người ta biết chúng ta “cháy túi”
rồi nên đừng hòng người ta cho vay như trước đây nữa. Mình xin vay 1 tỷ
USD, “họ” cho 10 tỷ lãi suất giảm 2/3, nhưng đấy là thời kỳ mình đang
lên, đang có uy tính nhất. Người ta cứ tưởng mình vay để làm gì chứ nếu
biết để trả nợ thì chắc chắn họ không cho như kiểu đã từng cho.
Một
vấn đề nữa là nếu tình trạng này tiếp tục thì chúng ta đứng trước nguy
cơ là không còn bất kỳ một đồng nào để đầu tư phát triển nữa. Hiện nay
gần 70% NSNN là dùng cho chi thường xuyên (mức chính xác nhất là trên
64%), còn lại là dịch vụ nợ. Dịch vụ nợ là hơn 30%. Như vậy là toàn bộ
100% NSNN chỉ để chi cho hai việc ấy thôi. Không có đầu tư công, không
có các đầu tư khác nữa. Có thể nói chưa bao giờ Việt nam đứng trước áp
lực nợ công lớn như bây giờ.
Không phải ngẫu
nhiên mà các báo cáo của Chính phủ vừa rồi nhắc nhiều đến việc phải kiểm
soát nợ công, nếu không sẽ tạo ra chuỗi domino rất nguy hiểm: nợ công
vỡ, uy tín giảm, môi trường đầu tư xuống dốc, doanh nghiệp không đầu tư
nữa, ngân hàng không huy động được tiền nữa và người dân đem tiền mua
vàng tích trữ... Lúc ấy thì ngân khố sẽ rỗng, nền kinh tế ảm đạm, nguồn
thu không có và buộc phải vay nợ rất nhiều, hoặc buộc phải vỡ nợ. Từ vỡ
nợ sẽ kéo theo an sinh xã hội kém đi, xã hội sẽ bất ổn. Bài học ở châu
Âu cho thấy từ khủng hoảng kinh tế kéo theo khủng hoảng xã hội, rồi
khủng hoảng chính trị...Đó là chưa nói đến nạn tham nhũng, sự chống phá
từ các thế lực thù địch. Đây là nguy cơ hiện hữu chứ không còn là cảnh
báo nữa.
Thưa ông, liệu việc tiếp tục phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài có làm giảm bớt “cơn khát” ngân sách không?
-
Thực ra thì bất kỳ một “con nợ” nào khi cần đều phải đi vay. Vay lung
tung: vay trong nước, vay nước ngoài. Đi vay còn tốt hơn là in tiền.
Chúng ta đã từng thấm thía điều này. Có thời kỳ chúng ta bị ngộ nhận về
quyền lực, ngộ nhận về sức mạnh của cái máy in tiền. Cho rằng nó là của
mình nên cứ thiếu tiền là in. Phi quy luật. Nó tạo ra cơn lũ về lạm
phát. Ngoài vấn đề lạm phát về giá cả, lạm phát về cung- cầu, còn lạm
phát về tiền tệ nữa. Điều tồi tệ hơn nữa là, nếu in tiền thì dòng thác
lạm phát sẽ xóa sạch tất cả thành công của công cuộc đổi mới và thậm chí
đẩy nhanh hơn sự đổ vỡ cả hệ thống. Nhưng nếu đi vay, như tôi vừa nói,
cũng không hề đơn giản. Tây Ban Nha cũng phải đi vay. Tuy nhiên, Tây Ban
Nha có cả EU nâng đỡ, nhưng họ cũng phải vay với lãi suất lên tới 17%.
Ta kham nổi lãi suất ấy không? Đừng tưởng đi vay được lãi suất thấp đâu.
Càng vay nhiều thì lãi suất càng cao bởi lúc ấy uy tín kém rồi, khả
năng trả nợ kém rồi, nên người ta càng phải áp dụng loại “tín dụng đen”
nhiều hơn.
Cho nên không nên kỳ vọng việc cứ thế
mà đi vay, vì không những đi vay sẽ chất gánh nặng cho con cháu mà còn
tự gây nguy hiểm cho chính mình trong hiện tại.
Điều
vô cùng quan trọng là phải có cơ chế để xử lý nợ, nguồn vay nợ cũng như
các tác nhân khiến cho nợ công tăng, chứ cứ thiếu tiền là đi vay mà cơ
chế thì vẫn như cũ, vẫn tham nhũng, vẫn bòn rút của công, vẫn xây trụ
sở, văn phòng, đền đài, lăng tẩm, vẫn 70% ngân sách chi thường xuyên thì
chắc chắn chỉ có đẩy tới các nguy cơ khủng hoảng toàn diện mà thôi.
Đẩy mạnh xã hội hóa, cắt giảm chi lương
Như ông nói thì tình hình có vẻ hơi bi quan quá chăng?
-
Vì thế chúng ta mới phải đổi mới mô hình. Thay vì đầu tư công ta chuyển
sang đầu tư ngoài công. Thay vì nhà nước làm ta chuyển sang tư nhân
làm. Thay vì DNNN là chủ đạo thì kinh tế tư nhân là chủ đạo. Vấn đề này,
về cơ bản, chúng ta đã nhận thức được rồi. Chắc chắn là trong thời gian
tới phải chuyển mạnh các hoạt động đầu tư, thậm chí biến các dự án đầu
tư công hiện nay, các dự án đầu tư hạ tầng lớn xuyên quốc gia, kể cả hải
cảng, sân bay, thành vốn tư nhân, thành công trình tư nhân.
Chuyên
gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cho rằng đã đến lúc cần đổi mới mô hình,
thay vì đầu tư công ta chuyển sang đầu tư ngoài công, thay vì nhà nước
làm ta chuyển sang tư nhân làm
Hiếm
có một nước nào lực lượng ăn lương từ NSNN lại lớn như ở ta. Bộ máy
Đảng, Nhà nước, Đoàn thể, Hội, thậm chí cả các hội nghề nghiệp nữa. Theo
ông phải xử lý vấn đề này như thế nào trong thời gian tới?
-
Điều nguy hiểm hiện nay là NSNN đang phải “nuôi” quá nhiều người. Ngoài
bộ máy Đảng, bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cấp xã, phường ra còn
“phải nuôi” các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể, các hội, thậm
chí cả các hội nghề nghiệp nữa. Như vậy nếu muốn giảm nợ công cho tương
lai thì phải cùng lúc giảm nợ đầu tư công và giảm chi thường xuyên cho
các bộ máy như vừa kể trên, đồng thời phải tăng tăng vốn cho đầu tư phát
triển để có nguồn thu. Vì vậy, trong thời gian tới phải xã hội hóa tất
cả các khâu, các lĩnh vực, các ngành nghề có thể xã hội hóa được. Đồng
thời phải mạnh dạn cắt bỏ chi thường xuyên. Phải để cho các tổ chức xã
hội, nhất là các tổ chức xã hội nghề nghiệp, đoàn thể, hội, hiệp hội,
trừ một số tổ chức đặc biệt như tổ chức Đảng, phải độc lập, tự chủ trong
trong việc tìm kiếm nguồn thu và chi.
Điều mà
tôi muốn nhấn mạnh ở đây là, thực ra thu hút nguồn tiền không phải là
quá khó. Tiền trong dân, của các nhà đầu tư còn nhiều, nhưng cái khó là
chúng ta không có những cơ chế hữu hiệu để thực hiện các dự án khả thi
thực sự mang lại hiệu quả cao, thiếu đội ngũ thực hiện chuyên nghiệp,
thiếu môi trường pháp lý trong sạch, thiếu niềm tin vào thể chế. Nếu
chúng ta không kịp thời khắc phục những hạn chế ấy thì nền kinh tế của
chúng ta sẽ không thể phát triển được.
Vậy là chúng ta chưa nhìn thấy điểm sáng nào sao, thưa ông?
-
Nếu xét về kinh tế, thì tổng thể, sẽ khá hơn lên. Tức là kinh tế sẽ
phát triển. Theo ADB đánh giá, năm nay kinh tế Việt Nam sẽ có tốc độ
phát triển thứ hai châu Á, đó là do tác động của công cuộc cải cách vừa
qua về môi trường, về thể chế, sự tự do hóa và đặc biệt là việc chúng ta
tham gia vào AFTA. Tất cả những điều này đã và đang tạo ra động lực mới
cho tư nhân, cho đầu tư nước ngoài cũng như cho các cải cách thể chế,
đặc biệt là cho sự phát triển kinh tế trong nước và đội ngũ doanh nghiệp
Việt Nam ra nước ngoài tìm kiếm cơ hội làm ăn cũng sẽ khá lên.
Tuy
nhiên, những điểm sáng đó chỉ có thể được thắp lên thành những bó đuốc,
khi chúng có cơ chế giám sát nợ công, vĩ mô phải ổn định, lòng tin đối
với các nhà đầu tư phải được xác lập. Lúc ấy, dù kinh tế nhà nước có kém
thì kinh tế tư nhân vẫn sẽ khá lên.
Về chính
trị, phải nhất quán, minh bạch hóa, làm rõ hơn thể chế, con đường đổi
mới. Khác với trước đây, một số người táo bạo đi tiên phong có thể bị
bắt lỗi, rủi ro chính trị, nhưng khi mình đã tham gia hội nhập quốc tế
rồi, nhất là sau khi tham gia hiệp định TPP thì cứ nói và làm theo đúng
những gì mà Việt Nam đã cam kết với quốc tế là chuẩn. Hi vọng nếu ta làm
tốt chuẩn đó, cộng với tinh thần khởi nghiệp và sự năng động của người
Việt thì đất nước sẽ khá hơn. Nhưng riêng vấn đề nợ công và tinh giản bộ
máy nhà nước đòi hỏi phải có một quyết tâm chính trị rất cao.
Xin cám ơn ông!
Nguồn Báo mới .com
0 comments